Năm Đinh Sửu (1757) Chúa Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) cho thành lập 5 đạo gồm: đạo Đông Khẩu ở phía nam sông Sa Đéc (1), đạo Tân Châu ở đầu Cù lao Giêng (chứ không phải tại thị trấn Tân Châu nay), đạo Châu Đốc, đạo Kiên Giang ơ Giá Khê (Rạch Giá), và đạo Long Xuyên (Cà Mau). Ba đạo kề trước đều thuộc diện địa tỉnh An Giang thời Nam Kỳ Lục Tỉnh do Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh xin đặt; hai đạo sau do Mạc Thiên Tích xin đặt.
Đạo là khu vực hành chính và quân sự, có đồn binh, quân binh lấy từ dinh Long Hồ để trấn áp, và có lỵ sở hành chính của đất ấy đóng ở đó, theo chế độ quân quản. Ngoài chức năng đảm bảo an ninh trong vùng, các đạo còn có nhiệm vụ tiếp cứu nhau khi có việc. Cụ thể, đạo Tân Châu chịu trách nhiệm phía Tiền Giang, đạo Châu Đốc chịu trách nhiệm phía Hậu Giang, đạo Đông Khẩu ngoài nhiệm vụ yểm trợ cho hai đạo phía trước, còn là tiền đồn trấn giữ Vĩnh Long xưa. Không chỉ thế nó còn là nơi che chắn tầm xa cho Mỹ Tho, Gia Định nếu giặc xuôi theo đại giang từ biên giới xuống. Cho nên vai trò của đạo Đông Khẩu là rất quan trọng. Sau, do bộ máy triều đình đã vươn xuống, đồn bảo được lập dựng tương đối đều khắp các nơi hiểm yếu, việc phòng thủ được xem đã hoàn bị, cấp hành chính dinh không còn, vai trò các đạo do đó không cần thiết, nên bỏ vào thời Gia Long.
Như vậy, đến thời Gia Long các đạo đều giải thể, do đó sách Đại Nam nhất thống chí ghi về cổ tích , An Giang tỉnh:”Đạo Đông Khẩu cũ: Ở bờ phía nam sông Sa Đét (2) thuộc địa phận huyện Vĩnh An, đặt từ năm Đinh sửu [1757], đầu đời trung hưng, nay bỏ”. Sách đã dẫn mô tả thêm toàn khu vực, phần núi sông:”Sông Sa Đét (sic): Ở bờ phía nam sông Tiền Giang, cách huyện Vĩnh An 8 dặm về phía bắc, rộng 21 trượng , sâu 28 thước, nước trong và lành , vườn ruộng mở mang, dân giàu và đông đúc. Trước kia đạo Đông Khẩu đóng ở phía nam, phố chợ liên tiếp ở phía bắc, thuyền bè tụ tập, bên tả có bến Tiên Phố, bên hữu có bãi Phượng Nga, lại có la thành hộ vệ, có thể gọi là thắng cảnh. Về phía tây nam qua ngòi Dầu, đến Nước Xoáy gồm 24 dặm, ở đây mạch đất thắt lại , dòng nước xoáy vòng” (3).
Đúng như những người biên soạn sách Lược sử vùng đất Nam Bộ – Việt Nam: đến năm 1757 những phần đất còn lại ở miền Tây Nam Bộ mà trên thực tế đã thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn từ trước đó, chính thức thuộc chủ quyền của Việt Nam. Sau này dưới thời nhà Nguyễn (1802 – 1945), tuy có một số địa điểm vẫn còn được tiếp tục điều chỉnh, nhưng trên căn bản khu vực biên giới tây nam Việt
Nói chung thì vậy, còn nói riêng ta thấy, để có Sa Đéc sầm uất ngày nay, ngay từ buổi sơ thời dựng đặt Nguyễn Cư Trinh với nhãn quan của một nhà chính trị sâu sắc, ông đã chủ trương đặt đạo Đông Khẩu tại đây, về mặt chiến lược là nơi rất hiểm yếu, và nó đã phát huy tác dụng rất hiệu quả, cụ thể là đảm bảo an ninh, an toàn lãnh thổ, góp phần không nhỏ cho cuộc Nam tiến dân tộc thành công. Nhờ đó Sa Đéc sớm trở thành nơi đô hội. Đô hội mà ấm áp tĩnh lặng! Ngay từ thời Pháp thuộc, người Pháp đã phải nghiêng mình thừa nhận “Sa Đéc là khu vườn của Nam Bộ”. Và cho đến ngày nay, nếu vùng đất Sa Đéc của tỉnh Đồng Tháp là nơi đầy ắp những sự kiện lịch sử, và là vùng sinh thái có nhiều nét đặc trưng, đặc biệt nổi tiếng là trái cây và hoa kiểng…, thì người Sa Đéc trước sau vẫn mang trong người dòng máu anh hùng dân tộc, lại rất hiền hòa chân chất, rất dễ mến, dễ thương !
Chú thích
(1) Theo lời thuật kể của Khoa Thuyên ghi trong Phủ Biên tạp lục, thủ ngự miền Tiền Giang, giữ đạo Đông Khẩu, quân 5 đội, mỗi đội 3 thuyền, mỗi thuyền 48 người, cộng 720 người; chiến thuyền 15 chiếc. Vậy tổng số quân của đạo Đông Khẩu có 720 người.
(2) Về địa danh này sách Đại
(3) Sách Gia Định thành thông chí cũng mô tả như thế và giải thêm về sông này :”…. Có đạo Đông Khẩu ở phía nam, chợ phố liên lạc, ghe thuyền nhóm đông, làm chỗ đại đô hội cho trấn này. Phía tả có Tiên Phố (thuộc về thôn Tân Qui Đông, mõm cát trắng lè ra như cái lưỡi, nước trong, gió mát, sông êm, người ta thường đậu thuyền nơi ấy, không có ruồi muỗi quấy nhiễu nên gọi là Tiên. Phía hữu có bãi Phụng Nga hình như la thành hộ vệ, núi sông hiểm yếu, bờ cõi vững yên. Chảy qua tây nam 33 dặm có Rạch Dầu (ở bờ phía tây), rạch Nàng Hai (ở bờ phía đông), rạch Sa Nhân (ở bờ phía tây), rồi đến ngã ba Nước Xoáy, mạch đất bị đến khẩn cấp, dòng nước chảy loanh quanh như kiểu chữ chi chữ huyền, để giữ chặt khí sinh vượng.
Biên soạn theo Nguyễn Hữu Hiệp
(www.vannghesongcuulong.org)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét